Hiển thị các bài đăng có nhãn tửvi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tửvi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

Truyền thuyết dân gian về 14 chính tinh trong khoa tử vi


Tử vi nghĩa là hoa tường vi màu đỏ thẫm (tử : màu đỏ tía – vi : tường vi hoa). Từ cổ đại giống người thuộc phía Bắc sông Hoàng Hà dùng hoa màu đỏ để chiêm bốc. Hình ảnh việc chiêm bốc ấy giống hệt như chuyện Quỷ Cốc trước khi cho Tôn Tẩn Bàng Quyên xuống núi vào đời tranh đấu bảo mỗi người ngắt một cành hoa tường vi đưa lên thầy. Xem hoa phân âm dương Quỷ Cốc tiên sinh đã đoán biết trước vận mạng Tôn Tẫn bị bao nhiêu năm điêu linh cùng cực đến nỗi phải giả điên, ăn cả phân heo mới thoát khỏi tay tên phản bạn lừa thầy Bàng Quyên.

Trải qua nhiều đời, Tử vi chiêm bốc chuyển thành toán mệnh phương pháp. Phương pháp này đặt Tử Vi làm tên một ngôi sao đi tiếp với 13 sao nữa là : Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Rồi chia đời người ra làm mười hai cung là các cung : Mệnh, huynh đệ, phụ mẫu, phu thê, tử tức, quan lộc, thiên di, tật ách, tài bạch, nô bộc, điền trạch, phúc đức.

Mười bốn chính tinh tuân theo một cách tính có sẵn căn cứ vào giờ, ngày tháng, năm sinh mà an vào mỗi cung. Sao nào ở cung nào sẽ tiên đoán việc gì đó sẽ xảy ra cho đời người.

Tỉ dụ: Cung phu thê (vợ chồng), được sao Thái Âm, Thái dương thì người đàn ông hay đàn bà thường sẽ có một hôn nhân tốt. Trái lại, nếu thấy có sao Liêm trinh ở cung phu thê thường là bất lợi cho gia đạo.

Tỉ dụ: Cung tài bạch có sao Vũ Khúc tất tiền bạc dồi dào, nếu cung này gặp sao hung, hẳn nhiên sẽ vất vả nghèo khổ.

Tỉ dụ: Trên trần thế biết bao nhiêu bách triệu phú ông mà vẫn sống trong cảnh u sầu. Tại vì có hung tinh nằm ở cung Phúc Đức.

Mười bốn vị chính tinh thực ra chỉ là những ký hiệu cho một bài toán. Nhưng đối với dân gian để cho dễ nhớ, cũng như để răn đời, họ liền ghép những ký hiệu ấy vào các nhân vật sử mà thành câu chuyện truyền thuyết sau đây:

Đời Phong Thần, vương triều nhà Ân có ông vua cực tàn ác là vua Trụ. Một hôm, Trụ Vương đi săn gặp mưa lớn, để trú mưa liền vào miếu Cửu Thiên Huyền Nữ. Trụ Vương vốn thô bạo và hiếu sắc thấy pho tượng Cửu Thiên Huyền Nữ đẹp quá mê ngay, hạ lệnh cho quân sĩ vác tượng đó về sung vào đám tì thiếp của nhà vua. Mọi người tuy kính nể nữ thần nhưng họ còn sợ sự tàn ác của vua Trụ gấp bội, nên nhất loạt vâng lệnh mang tượng Cửu Thiên Huyền Nữ về cung.

Cửu Thiên huyền Nữ giận lắm mới hoá phép biến một con hồ ly trong rừng thành người đàn bà tuyệt sắc rồi sai đến mê hoặc Trụ Vương mà làm cho nhà Ân phải diệt. Người đàn bà tuyệt sắc ấy tên Đát Kỷ, vương phi sủng ái của vua Trụ. Quả nhiên, Trụ Vương say mê Đát Kỷ bỏ phế việc triều đình, gây xáo trộn trật tự.

Cùng lúc đó, trên trời đang thiếu nhiều thần linh, Ngọc Hoàng Thượng Đế rất mừng thấy Cửu Thiên Huyền Nữ quyết tâm diệt Ân. Ngài nghĩ một khi nước loạn tất sẽ có nhiều anh hùng, trung thần chết vì quốc nạn. Ngài phái Thái Bạch Kim Tinh lập tức ra Nam Thiên Môn cầm sổ chờ sẵn, trong cơn binh lửa đón những người chết về.

Ở phía Tây giang sơn nhà Ân có chư hầu quốc dòng họ Chu giầu có thịnh vượng, văn hoá cao. Sợ nhà Chu một ngày kia sẽ lấn áp mình nên Trụ Vương ý định ra tay trước mới mượn cớ mời vị lãnh đạo Chu quốc là Văn Vương tới họp. Chu Văn Vương tinh thông bát quái Dịch Lý của Phục Hi, trí tuệ bậc nhất thời bấy giờ. Trụ Vương nghĩ cứ bắt Văn Vương giết đi thì mọi sự sẽ đâu vào đấy. Khi Văn Vương đến nơi, vua Trụ cho bắt nhốt ngay chờ ngày hành quyết, kết tội Văn Vương phản nghịch.

Con lớn Văn Vương là Bá Ấp, đẹp tuấn tú, hiên ngang, đàn bà con gái trông thấy Bá Ấp một lần là thương nhớ khó quên. Bá Ấp rất có hiếu, nghe tin cha bị hại lòng xốn xang như lửa đốt, ngày đêm phóng ngựa đến gặp vua Trụ để minh oan cho cha mà không hề biết hậu ý của vua Trụ. Trụ Vương hứa ba ngày sau sẽ nói chuyện và lưu Bá Ấp ở trong cung.

Đêm khuya, Bá Ấp ngồi gảy đàn, tiếng đàn như nước chảy trên đá, buồn như chim đỗ quyên hót nhiều đến rớm máu mắt chan hoà khắp cung điện khiến Đát Kỷ tỉnh giấc lắng nghe rồi lần theo tiếng đàn mà tới buồng Bá Ấp. Nàng chỉ mặc trên người tấm áo lụa mỏng. Nhìn qua song cửa, Đát Kỷ trông thấy dưới ngọn bạch lạp, một chàng trai khôi vĩ, cao sang tuyệt bực đang chăm chú với phím đàn. Con hồ ly tay sai của Cửu Thiên Huyền Nữ, nó vốn tính cực dâm đãng nên chẳng chút ngần ngại mở cửa vào phòng Bá Ấp dùng cử chỉ lả lơi quyến rũ. Nào ngờ Bá Ấp chẳng những bất động tâm, chàng còn lớn tiếng mắng Đát Kỷ. Đát Kỷ bực bội vì không được thoả mãn cũng chửi lại Bá Ấp làm náo loạn cung đình, vệ binh kéo đến bắt giữ Bá Ấp. Đát Kỷ già mồm khóc lóc nói với vua Trụ rằng mình bị Bá Ấp làm xấu, nghe tiếng đàn nàng đứng ngoài song cửa bỗng Bá Ấp xấn tới ôm nàng kéo vào buồng. Trụ Vương cả giận, cơn ghen bừng bừng không cần hỏi han cơ sự thực hư thế nào nữa, hét quân mang Bá Ấp ra chém rồi băm thây ra viên thịt Bá Ấp nướng chả đem đến cho Văn Vương ăn.

Văn Vương trong ngục thất là người giỏi toán số đã biết rõ hết mọi chuyện xảy ra. Buổi sáng khi quân canh mang chả nướng vào, Văn Vương ung dung ngồi ăn hết dĩa chả. Trụ Vương thấy vậy cười ha hả nói : “Thằng đó đúng đồ hư danh, ăn thịt con mà cũng không biết thì có gì đáng sợ, không hiểu tại sao thiên hạ phục hắn về cái tài thần toán chiêm bốc”. Nói rồi Trụ Vương sai thả Văn Vương ra khỏi ngục.

Trên đường về Chu quốc, nỗi mừng thoát nạn không sao lấp được cái buồn cha ăn thịt con cho nên vẻ mặt bi thảm khôn tả. Đến nhà, Văn Vương tìm khu vườn cây xanh tốt, tự móc họng để nhả những miếng chả ra. Lạ thay, thịt Bá Ấp đã biến thành một động vật lông trắng muốt, đôi tai dài, mắt đỏ màu hồng ngọc chạy nhảy tung tăng trông hiền hậu dễ thương, đấy là con thỏ đầu tiên của thế giới. Nó cúi đầu chào Văn Vương rồi chạy vào đám cỏ xanh mất dạng. Thái Bạch Kim Tinh đưa tay đón bắt con thỏ đưa về trời. Giữa lúc ấy thì trên một ngôi sao, hoa tường vi nở đỏ bát ngát. Ngôi sao này là chủ tinh của một chòm sao. Do đề nghị của Thái Bạch Kim Tinh, Ngọc Hoàng Thượng Đế liền bổ nhiệm Bá Ấp về cai quản sao Tử Vi bởi lẽ Bá Ấp hội đủ ba tính chất : thiện lương, tôn quí và cao quí.

Văn Vương thề quyết trả thù cho con, ngày đêm nỗ lực xây dựng xứ sở, làm việc quá nhiều Văn Vương kiệt lực chết, việc diệt nhà Ân giao vào tay Vũ Vương, em của Bá Ấp.

Vũ Vương nối nghiệp cha, ngày ngày huấn luyện binh mã, chăm lo nông nghiệp, quốc lực tăng trưởng, nhờ vị quân sư là Khương Thượng, Vũ Vương đánh bại Trụ Vương tiêu diệt Ân triều.

Khương Thượng hiệu Tử Nha tục xưng Lã Vọng là người cao minh trí tuệ, lúc chưa đắc chí ngồi câu cá nơi sông Vị, nghèo khổ cùng cực bị mụ vợ già chửi mắng suốt ngày. Mãi đến chín mươi tuổi mới gặp Văn Vương mời về làm quân sư. Văn Vương chết, Khương Thượng giúp Vũ Vương phạt Trụ.

Bình xong thiên hạ, Vũ Vương phong cho Khương Thượng cai quản đất Tề. Lúc chết, Thái Bạch Kim Tinh mời về trời giao cho cai quản sao Thiên Cơ, bởi thế sao Thiên Cơ trong Tử Vi đẩu số tượng trưng cho trí tuệ, quyền biến cơ mưu.

Trụ Vương tuy là bạo quân nhưng chung quanh ông ta có nhiều trung thần, đáng kể nhất là Tỉ Can từng khuyên vua Trụ dứt bỏ con yêu tinh Đát Kỷ. Trụ Vương bực bội mắng Tỉ Can bất trung. Để tỏ lòng ngay thẳng, Tỉ Can nói với Trụ Vương: “Nếu bệ hạ không tin lời, thần xin đem tấm lòng son sắt dâng lên bệ hạ”. Nói xong cầm dao tự đâm vào ngực moi tim đưa cho Trụ Vương. Tỉ Can chết, Thái Bạch Kim Tinh thương lắm tới đón về trời giao cho cai quản tinh cầu sáng rực, cực quang minh chính đại là sao Thái Dương.

Khương Thượng, Bá Ấp, Tỉ Can đã xong, còn Văn Vương, Vũ Vương ra sao?

Vũ Vương lên ngôi thi hành thiên chính, sống rất thọ. Khi chết, Thái Bạch Kim Tinh nhận thấy công trạng vũ dũng đánh dẹp bạo quân rất xứng đáng với sao Vũ Khúc nên dâng sớ xin Ngọc Hoàng đặt Vũ Vương nơi ấy. Vũ Vương chẳng những là người dũng cảm lại giỏi về kinh tế khiến cho đời sống dân gian sung túc. Do vậy Vũ Khúc còn là sao chủ về tiền bạc giàu có trong Tử Vi đẩu số.

Thảo phạt Trụ Vương là Vũ Vương, nhưng nếu không có những công lao bước trước của Văn Vương thì đại sự cũng chẳng thành. Hầu hết các nhân vật tài giỏi giúp Vũ Vương đều do Văn Vương để lại. Thái Bạch Kim Tinh nhận thấy Văn Vương xứng đáng là một vị thần giỏi dung hoà xếp đặt, tính tình ôn thuận nên cho về cai quản ngôi sao Thiên Đồng.

Bên cạnh vua Trụ có tên đại gian thần là Phí Trọng dùng nịnh nót và gian kế đã giết chết nhiều trung thần của Ân triều để thoả mãn giấc mộng nắm đại quyền quốc gia. Khi Ân triều diệt vong, Phí Trọng bị Khương Thượng bắt đem chém đầu. Ngày hành hình trên trời thiếu thần trị nhậm sao Liêm Trinh, Thái Bạch Kim Tinh liền dùng Phí Trọng làm vị thần của mọi sự tà ác. Trong Tử Vi đẩu số, Liêm Trinh chủ về những sự việc lắt léo không ngay thẳng, tàn nhẫn.

Trụ Vương có một vị chính thức nguyên phối hoàng hậu họ Khương là người đàn bà hiền thục tài năng. Từ ngày Đát Kỷ xuất hiện, bà Khương hậu bị vua Trụ bỏ rơi, do sự xúi bẩy của Đát Kỷ, Trụ Vương giết luôn bà Khương hậu. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Khương hậu cho cai quản một tinh cầu đầy vật sản phì nhiêu là sao Thiên Phủ. Trong Tử Vi đẩu số, sao Thiên Phủ mang tính chất tài năng và từ bi.

Ân triều có ông quan trung nghĩa tên Hoàng Phi Hổ có người vợ họ Giả, nhan sắc diễm lệ, nức tiếng xa gần. Lệ triều đình hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán, các quan phải cùng đi với phu nhân vào bái yết quốc vương. Giả phu nhân theo chồng vào cung. Đát Kỷ thấy Giả phu nhân nói chuyện duyên dáng lại đẹp nên đố kỵ, bảo vua Trụ mời bà ở lại dự dạ yến để lập kế hại.

Rượu say, Trụ Vương chẳng giữ lễ vua tôi gì nữa, chạy lại ôm lấy Giả phu nhân mà ép nài chuyện bậy bạ. Vốn là người đàn bà trọng tiết tháo, không chịu được nhục nhã, bà bỏ chạy cùng đường phải lao mình từ trên lầu cao xuống đất tự tử. linh hồn Giả phu nhân bay lên trời, Thái Bạch Kim Tinh đặt bà làm nữ thần của sự thanh khiết, cho đến trú ngụ nơi sao Thái Âm. Từ khi bà về tới thì tinh cầu này trở nên gọn ghẽ, sáng sủa và rất sạch.Thái Âm tinh trong khoa Tử Vi tượng trưng cho thanh khiết, sáng đẹp và ưa sạch sẽ.

Đát Kỷ, nữ yêu chủ chốt của nhiều biến cố, số phận ra sao?

Xuất thân là con hồ ly hầu hạ Cửu Thiên Huyền Nữ qua danh nghĩa ái nữ của một đại thần nên lọt vào cung đình, dùng tửu sắc mê hoặc Trụ Vương. Đát Kỷ gây nhiều tai hoạ, bị Khương Tử Nha xử tử hình. Thái Bạch Kim Tinh cho bắt vong hồn Đát Kỷ về phong làm thần dục vọng, ác liệt, hoang đàng để cai quản sao Tham Lang. Tinh cầu này đầy chó sói hung dữ không thần nào trị nổi chúng. Nhưng lúc Đát Kỷ tới nơi thì chúng reo mừng. Trong Tử Vi đẩu số, sao Tham Lang mang tính chất điếm đàng tửu sắc, ưa vung phí ăn chơi, tượng trưng người đàn bà phá hoại chồng con, vô tài, bất đức.

Khương Tử Nha ngoài bảy mươi tuổi mới lấy người con gái lỡ thì năm ấy cũng đã hơn năm mươi tuổi tên Mã Thiên Kim. Kể từ ngày chung sống gia cảnh cực thanh bần, nhiều bữa không có cơm ăn. Mã Thiên Kim là người đàn bà thô tục, lăng loàn, vụng về, chỉ vì nhờ chút tiền duyên nên lấy được Khương Thượng. Sau mười mấy năm, nghèo quá chịu không nổi, Mã Thiên Kim bỏ Khương Thượng. Lã Vọng bấm tay tính số biết lúc con vợ lăng loàn thô tục ra đi chính là lúc vận bĩ của ông cũng hết và Khương Thượng một sớm một chiều trở thành quân sư của Văn Vương.

Nghe tin, Mã Thiên Kim vừa tiếc vừa hối hận, thắt cổ tự ải. Lã Vọng nghĩ tình cũ nghĩa xưa, cho người làm tang ma tống táng, hồn phách Mã Thiên Kim được Thái Bạch Kim Tinh dùng làm nữ thần coi các việc thị phi, nỏ mồm quai mỏ cấp cho nhà ở nơi sao Cự Môn.

Trong đám trung thần bên cạnh Trụ Vương còn có Văn Thái Sư làm tể tướng và đại nguyên suý của Ân triều. Quân nhà Ân bị Chu quân đánh thua, Văn Thái Sư chết tại trận tiền. Vong hồn lên trời được Thái Bạch Kim Tinh cho cai quản sao Thiên Tướng.
Bất luận ai, theo lý ra phải sau khi chết mới được làm thần, chỉ duy Lý nguyên suý đại tướng của nhà Chu là Thái Bạch Kim Tinh theo lệnh Ngọc Hoàng, xuống mời về làm thần ngay lúc ông còn sống. Nơi trị nhậm của Lý nguyên suý là Thiên Lương tinh.

Hoàng Phi Hổ uất ức vụ vua Trụ làm nhục vợ mình gây ra cái chết oan uổng cho Giả phu nhân nên nổi lên đem binh mã đánh lại Trụ vương về rồi đầu hàng Vũ Vương. Ông đánh trận rất hăng thu được nhiều thắng lợi lớn. Cuối cùng Hoàng Phi Hổ chết thảm trong trận Thằng Trì. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Phi Hổ về cai quản sao Thất Sát và phong làm thần chiến tranh chuyên coi việc sát phạt.

Sau chót là Trụ Vương vì mê Đát Kỷ, hãm hại trung thần bị Vũ Vương khởi binh chinh phạt. Vũ Vương tấn công vào tận cung điện Trụ Vương. Hết đường chạy, Trụ Vương leo lên lầu cao nổi lửa đốt hết và chết trong đám cháy. Trụ Vương chết rồi, Thái Bạch Kim Tinh cho mang vong hồn về sao Phá Quân, phong làm thần phá hoại.

Tổng kết lại,

- Sao Tử Vi là Bá Ấp, thần của khí chất tôn quí.
- Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần.
- Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái.
- Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú.
- Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận.
- Sao Liêm Trinh là Phí Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo.
- Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi.
- Sao Thái Âm là Giả phu nhân, thần của tinh khiết, trinh tháo và sạch sẽ.
- Sao Tham Lang là Đát Kỷ, thần của dục vọng, vật chất.
- Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc.
- Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh.
- Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cai quản, tổ chức, xếp đặt.
- Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt.
- Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao.

Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010

BÀI 3: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHÚC ĐỨC”



Những người sinh vào giờ Sửu (1am đến 3am) và những người sinh vào giờ Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi vậy, ý nghĩa đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha mẹ, hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem cung Phúc Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi độ số tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v…Nói một cách khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu gốc rễ tốt thì cho dù một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao lâu. Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại lâu dài được.

Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được.

Ngược lại, chúng ta cũng thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm. Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự.

Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.

Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một người làm quan, cả họ được nhờ.”

Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất là trên vấn đề tiền bạc.

Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ dù gần hay xa. Đây là mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay sống rời xa giòng họ của mình.

Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.

-Sưu tầm-

BÀI 2: MẪU NGƯỜI “MỆNH THÂN ĐỒNG CUNG”



Nếu khoa Phong Thủy chia căn nhà ra làm 8 cung và mỗi cung là lãnh vực trong đời sống con người, và cũng là biểu tượng của mỗi thành viên trong gia đình, thì khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cùng một quan niệm như vậy. Khoa Tử Vi còn chi tiết hơn chia lá số ra thành 12 cung và mỗi cung cũng là một nét sinh hoạt, là một khoản thời gian nào đó của một đời người. Như chúng ta đã nói ở chương trước, 12 cung của khoa Tử Vi theo thứ tự gồm có Mệnh, Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch, Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật Ách, Tài Lộc, Tử Tức, Phu Thê, và Huynh Đệ. Nhưng thực tế một lá số không chỉ có 12 cung mà còn có một cung thu 13 gọi là cung Thân. Đặc biệt cung Thân không đóng riêng rẽ ở một vị trí nào trên lá số mà nó luôn luôn đóng chung với 1 trong sáu cường cung là Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di hoặc Phu Thê.

Trong 13 cung, cung Mệnh và cung Thân là quan trọng nhất. Đầu tiên là cung Mệnh. Khi nói về chữ “mệnh” chúng ta thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cái ý nghĩa thứ nhất của chữ mệnh đó chính là bản thân của đương số. Xung quanh cuộc đời của cá nhân đương số còn có cha mẹ (Phụ Mẫu), anh em (Huynh Đệ) vợ chồng (Phu Thê) con cái (Tử Tức) rồi tới bạn bè đồng nghiệp, thuộc hạ (Nô Bộc) và cả cái xã hội mà đương số phải đương đầu va chạm hằng ngày (Thiên Di)
Ý nghĩa thứ hai của chữ “mệnh” là Thiên Mệnh, là số trời, là cái quan niệm mỗi người sinh ra vào giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào thì cuộc đời đã được an bài sắp đặt sẳn rồi. Bởi vậy Mệnh được xem như nền móng của một căn nhà. Nếu nền móng không vững chắc, kiên cố thì những gì xây dựng trên đó cũng không thể nào tồn tại lâu dài được. Đó là trường hợp của những người có các cung chính như Quan Lộc, Tài Bạch, Diền Trạch v.v… tốt đẹp, sáng sủa, nhưng Mệnh yếu thì tiền tài, danh vọng, của cải cũng chỉ như cái bóng to lớn trên tường mà thôi.

Tuy nhiên, dù là môn khoa học huyền bí nhưng ngoài quan niệm chủ yếu “Thiên Mệnh” khoa Tử Vi không quên một yếu tố thứ hai sẽ dự phần vào đời người, đó là quan niện “nhân định” Vì thế Tử Vi Đẩu Số mới có một cung di động gọi là cung Thân, là cung quan trọng thứ nhì trong một lá số.
Khoa Tử Vi cho rằng cung Mệnh là căn bản của một đời người. Nhưng cung Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào giai đoạn của một đời người hay gọi là ”tiền vận”. Tiền vận là khoản thời gian từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi. Nhưng có người tính tiền vận theo Cục. Ví dụ:
Thủy Nhị Cục thì tiền vận từ 1 đến 32 tuổi
Mộc Tam Cục thì tiền vận từ 1 đến 33 tuổi
Kim Tứ Cục ……………..1 đến 34 tuổi
Thổ Ngủ Cục ………………1 đến 35 tuổi
Hỏa Lục Cục ………………1 đến 36 tuổi

Chúng ta thấy quan niệm này của Tử Vi rất hợp lý vì con người từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi hầu như sống dưới mái ấm của gia đình, bên cạnh tình thương yêu của cha mẹ, và sự dùm bọc của anh em. Mãi cho đến khi 30 tuổi trở lên là lứa tuổi trung bình cho hầu hết mọi người để tự lập thân, bước chân vào bương trải với đời. Đó là lúc ứng vào cung Thân của lá số.

Sau tiền vận thì cung Thân ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng thời gian còn lại của cuộc đời, nó bao gồm cả trung vận và hậu vận của mỗi người. Bởi vậy khi nói đến sự quan trọng của cung Mệnh và Thân, chúng ta thấy có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất chú trọng cung Thân hơn cung Mệnh và luận cứ của quan điểm này là trong khỏan tiền vận chúng ta thường sống dưới mái ấm gia đình, trong vòng tay che chở của cha mẹ cho nên nếu cung Mệnh có tốt thì cũng chưa làm nên cơm cháo gì được. Ngược lại nếu cung Thân tốt thì sẽ hữu hiệu hơn cho cái tuổi “tam thập nhị lập” tức là tuổi bắt đầu lăn lộn vào đời lập nghiệp cho nên rất cần có một cung Thân tốt đẹp.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng, cuộc đời như một cái cây mà Mệnh là gốc rễ, Thân là những nhánh cây, cành lá. Nếu gốc rễ không vững chắc thì cành lá cũng khó mà xanh tươi, đơm hoa kết qủa được. Người viết đồng tình với quan điểm này. Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ ở tiền vận nhưng vẫn luôn là căn cơ, cốt lỏi là nền tảng của một đời người. Và khi nói về cung Thân, chúng ta phải nhớ một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là khi cung Thân đóng chung với cung nào thì những ý nghĩa tốt xấu của cung ấy sẽ là những nét chính yếu trong cuộc đời của ngưòi ấy. Như vậy thì người có Thân cư Mệnh là mẫu người như thế nào?

Sắc nét đặc biệt đầu tiên của người này là lòng tin vào thiên mệnh rất mạnh. Vì như chúng ta đã nói ở trên, cái ý nghĩa đầu tiên của chữ Mệnh là ý trời = mọi việc đều do Trời định, là định mệnh. Mẫu người này ít tin vào quan niệm “Nhân định thắng thiên” cho nên khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, trắc trở họ thường nhắm mắt buông tay mặt cho số phận xoay vần vì thuyền đời của họ đã lỡ neo vào bến Mệnh rồi, chỉ còn biết trong nhờ đục chịu mà thôi.

Một đặc điểm thứ hai đáng kể của người Thân Mệnh đồng cung là không có những khúc quanh cũng như những biến đổi lớn lao nào trong suốt cuộc đời của họ. Như đã bàn ở trên, Mệnh ảnh hưởng mạnh vào tiền vận. Thân ảnh hưởng mạnh vào trung vận và hậu vận. Bởi vậy khi Thân và Mệnh đồng cung thì Mệnh và Thân đều ảnh hưởng chung vào cả cuộc đời từ lúc sinh ra cho đến lúc lìa đời. Có nghĩa là nếu đương số giàu có thì suốt đời giàu có, nếu nghèo thì sẽ nghèo suốt đời chứ không giống như những người khác chẳng hạn nếu cung Mệnh xấu thì tiền vận có thể cực khổ nhưng cuộc đời về sau có thể thay đổi khá hơn nếu cung Thân tốt đẹp hơn cung Mệnh. Hay ngược lại nếu cung Mệnh tốt đẹp thì cuộc đời của đương số có thể sung sướng từ lúc lọt lòng mẹ cho đến tuổi lập thân. Rồi sau đó có thể đổi đời, trở nên vất vả, cực khổ nếu cung Thân xấu hơn cung Mệnh.
Và điểm đặc biệt cuối cùng là có người cho rằng nếu Mệnh Thân đồng cung tại tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và hai cung Tí Ngọ thì đó là những vị trí không tốt cho người Mệnh Thân đồng cung. Tóm lại, cuộc đời của những người Thân Mệnh đồng cung là một con đường tương đối bằng phẳng. Dù đường đời của họ có đầy hoa lá hay chỉ toàn sỏi đá, chông gai thì cũng không có những khúc quanh đột ngột, hay những biến động lớn làm thay đổi cả cuộc đời. (sưu tầm)

BÀI 1: ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC THÂN CƯ BẾN NÀO ?


Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn năm về trước. Nói là có giá trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu. Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy, những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm. Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyện mà có thể tránh được cái ân hận “lầm người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa
Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời người...

Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số là con người, và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời của người này đã được an bài từ giây phút đó. Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo.

Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung), khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự nghiệp (Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)... Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn gọi là hậu vận. Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người đó”.

Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân an theo giờ sinh, cho nên những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì Thân cư Quan Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư Thiên Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê. Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi biết một người sinh vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được một nét tổng quát về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là một trong những sự kỳ diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của người Trung Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những nét đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư Mệnh, hay còn gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ theo đồng hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ, từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.

(Sưu tầm)

BÀI 7: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHU/THÊ”



Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch? Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi.

Thật đúng với ý nghĩa “xuất giá tòng phu”
Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu Thê.

Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn, tùy theo lá số của mỗi người.

Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở tuồng mà họ phải diễn.

Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác.

Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một cơ sở thương mại với nhau. Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau.

Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu:

1. Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không?

Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan niệm bình thường. Do đó, nếu một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.

Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta cũng phải cân nhắc như vậy.

Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là số nhờ chồng/vợ.
Trường hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với nhau như đã bàn ở trên.

2. Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không?

Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết.

Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.

---sưu tầm----

BÀI 6: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ TÀI BẠCH”


Trong một lá số, cung Quan Lộc và Tài Bạch là hai cung có vị trí hợp chiếu với Mệnh và được xem là hai cung quan trọng. Chữ Tài Lộc cũng nói lên hết ý nghĩa của cung này. Nếu như cung Quan Lộc diễn đạt con đường công danh, sự nghiệp và cả một phần nào chuyện vợ chồng, thê thiếp thì cung Tài Lộc không chỉ đơn thuần nói về vấn đề tiền bạc mà cũng phần nào phản ảnh lãnh vực nghề nghiệp của mình.

Điều mà chúng ta sẽ thấy trong một vài lá số mà nghề nghiệp của đương sự được mô tả trong cung Tài Lộc còn rõ ràng hơn cung Quan Lộc nữa. Trường hợp này thường thấy trong các lá số của người Thân Cư Tài Lộc mà chúng ta sẽ bàn đến.

Cung Tài bạch diễn tả vấn đề tiền bạc của một đời người. Có tiền nhiều hay ít, có tiền bằng cách nào, làm ra tiền sớm hay muộn, kiếm tiền dễ dàng hay khó khăn, tiền do chính bàn tay mình tạo dựng nên hay được thụ hưởng di sản của giòng họ. Tiền bạc do lộc của trời như trúng số, hoặc do người khác mang đến. Có tiền rồi giữ được hay không? Hay dễ bị hao tài? Tiền bạc có mang lại hạnh phúc cho đương số hay không, hay có tiền thì có tai họa đi liền theo sau v.v…

Cung Tài bạch ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức cho nên ông bà chúng ta có câu: “Có phúc mới có phần” ngụ ý là số giàu cũng do Phúc Đức. Bởi vậy cung Tài Lộc cũng chỉ rõ người có số được hưởng gia tài, sản nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại hoặc tiền tài phải do tự hai bàn tay của mình tạo dựng nên mới có được. Nói một cách khác, tất cả những tốt xấu của cung Phúc Đức đều có ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Tài Lộc hơn những cung khác, và đó cũng là sắp xếp rất có ý nghĩa của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những môn học huyền bí của người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng sâu xa triết lý nhà Phật.

Những người sinh vào giờ Thìn (từ7am tới 9am) hay là những người sinh vào giờ Tuất (từ 7pm tới 9pm) thì Thân sẽ rơi vào cung Tài Bạch. Có người nghĩ rằng nếu Thân cư Quan Lộc thì sẽ làm quan, Thân cư Tài Lộc thì sẽ giàu có. Quan niệm này không chính xác bởi vì tuy là số thân cư Quan Lộc nhưng làm quan hay làm người bình dân thì cũng còn tùy vào cung Quan Lộc của đương sự tốt hay xấu. Tương tự, như số Thân cư Tài Lộc, giàu hay nghèo cũng còn tùy vào cung Tài Lộc tốt xấu ra sao. Tuy nhiên, những người Thân cư Tài Lộc, họ có những nét đặc biệt khái quát như sau:

Trước tiên, tiền bạc là vấn đề chủ yếu và là mục đích quan trọng trong cuộc sống của họ. Nói như vậy không có nghĩa là người có Thân cư Tài Lộc quan niệm sống của họ chỉ có tiền mà họ là những người có khả năng làm ra tiền. Làm ra tiền nhiều hay ít, dễ dàng hay khó khăn, và bằng cách nào thì cũng còn tùy vào lá số của mỗi người. Dù nghèo hay giàu, người Thân cư Tài Lộc thấu hiểu giá trị của đồng tiền và sử dụng đồng tiền ra sao cho xứng đáng với giá trị của nó. Chuyện đáng xài thì xài, chuyện không đáng thì 1 xu cũng không bỏ ra. Mẫu người này quan niệm tiền là cái đích tiên quyết phải có, rồi từ đó xử dụng tiền như một phương tiện để được những mục đích khác mà họ mong muốn.

Người Thân cư Tài bạch thường có năng khiếu về thương mại, kinh doanh. họ là những người thích hợp để trở thành chủ nhân của những cơ sở làm ăn mua bán và thường trở nên giàu có bằng đường kinh doanh nếu cung Tài Lộc của họ tốt đẹp. Ngược lại, một người có Thân cư Tài Lộc mà cung Tài Lộc lại không được sáng sủa thì họ sẽ là người suốt đời vất vả vì tiền, hay thường gặp những tai họa về tiền bạc. Có thể đến một vận hạn nào đó, họ cũng có cơ hội làm ra tiền nhưng lại không giữ được tiền trong tay.

Cuối cùng, như chúng ta đã nói ở trên, khi Thân cư vào cung Tài Lộc thì Thân sẽ ở vị trí đối diện với cung Phúc Đức. Có nhiều vị nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số thì họ cho rằng cung Thân quan trọng hơn Mệnh vì cung Thân biểu tượng cho trung vận và hậu vận, là khoảng thời gian mà chúng ta bắt đầu rời khỏi vòng tay của cha mẹ để lăn lộn vào đời tự lập thân. Và như vậy, những người Thân cư Tài Lộc, cung Thân sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cung Phúc Đức kể từ khi họ bước chân vào đời. Nói một cách khác, hậu vận của một người Thân cư Tài Lộc sẽ ra sao cũng là một phần tùy thuộc vào sự tốt xấu của cung Phúc Đức. Nếu nói theo triết lý của đạo Phật là đương số hưởng được sự tích đức của ông bà, cha mẹ hay là đương số phải trả nghiệp cho ông bà, cha mẹ của mình.

--SƯU TẦM---

BÀI 5: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI”


Nằm ở vị trí đối diện với cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều ý nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai cung có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung Mệnh.

Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu con người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói chung, và trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.

Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc biệt khác như nghề nghiệp, sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm ăn xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê hương của mình, ra đời được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư Thiên Di là những người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay ngoài đời thường có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói là được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập thân, suốt đời chỉ là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là được tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu Mã vậy. Và một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số của khoa Tử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai cung Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời đều một phần nào do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình tạo nên, và sự hỗ trợ của người bạn đời, là người chồng hay người vợ, đến từ đằng sau hay bên cạnh mình là những yếu tố không thể chối bỏ.

Những đặc tính căn bản của cung Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu người Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người này là tính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng như thích di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải là mẫu người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người như ông bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Từ đó, nếu quý bà mà đức lang quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với những bữa ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp cha v.v...

Và ngược lại, nếu phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học trước cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách pha sữa, thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người đàn bà có số Thân Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc sống trong gia đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm vui và sự thích thú hơn là những việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản thân họ, hoặc cho chồng con bên trong gia đình.

Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám đông, của bạn bè, của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di thích giao thiệp rộng nên thường là những người có năng khiếu trong lãnh vực ngoại giao và tổ chức.
Trong lãnh vực nghề nghiệp, người Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề có tính cách di động, thường được đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người... Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay truyền thanh, truyền hình, đại diện thương mãi, ngoại giao v.v... đều là những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người Thân Cư Thiên Di.

Hầu hết những người có số Thân Cư Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng lứa tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương, nhất là trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí của Thiên Mã, một sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là những người thường có cuộc sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và chết cũng tại quê người.

Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con người” trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một con người khác là con người ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.

Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di là mẫu người có một cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu giang hồ, cho nên thường thích ra đời sớm, thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa chí tang bồng.

- sưu tầm--

BÀI 4: MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”


Những người sinh vào giờ Dần (3am tới 5am) hoặc vào giờ Thân (3pm tới 5pm) là những người có số Thân cư Quan Lộc. Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện con đường công danh và sự nghiệp của người đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẽ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v… Cung Quan Lộc cũng nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa thích.

Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc như những người khác.

Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.
Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với công việc.

Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp” chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.

Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương số.
Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.

Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”

Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.
Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.
Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.

Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng.
Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổ nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.

Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.

-- sưu tầm---